Có chứng cứ rõ rệt rằng việc tiếp xúc liên tục và kéo dài với nhiều hoá chất làm phá vỡ quân bình nội tiết (EDC: endocrine dirupting chemicals) là yếu tố nguy cơ làm giảm khả năng mang thai và khả năng có thể sinh con trong 1 chu kỳ kinh nguyệt (fecundity) ở phụ nữ. (Caserta 2011)
Khả năng gia tăng việc tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ sinh sản của phụ nữ, đã phát triển trong xã hội công nghiệp hoá và sau đó, là thời đại hậu công nghiệp của phương Tây.
Các yếu tố liên quan đến lối sống, như hút thuốc, béo phì và độ tuổi làm mẹ tăng cao, đã được xác minh là có ảnh hưởng đến khả năng có thể thụ thai tháng (fecundability), và khả năng có thể sinh con trong 1 chu kỳ kinh nguyệt (fecundity).
Cũng tương tự đối với các yếu tố nguy cơ về nghề nghiệp, bao gồm lao động nặng, việc tiếp xúc với các khí gây mê, các thuốc chống tăng sinh, các kim loại nặng và các dung môi. Các hoá chất hiện diện trong môi trường và chế độ ăn uống ít được quan tâm hơn, mặc dù có những bằng chứng từ các nghiên cứu về độc tính học đã xác định rõ rằng nhiều hoá chất làm giảm sự sinh sản của phụ nữ cả trực tiếp và/ hoặc gián tiếp.
Phạm vi của các rối loạn hệ sinh sản ở phụ nữ làm phá vỡ quân bình nội tiết là khá lớn. Sự tiếp xúc với các EDC có thể góp phần vào:
Các rối loạn về buồng trứng: dị bội, hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS), lạc nội mạc tử cung
Rối loạn chu kỳ kinh nguyệt: rối loạn tử cung (xơ tử cung), Rối loạn chức năng nhau thai
Kết quả mang thai bất lợi: hư thai giai đoạn sớm, sẩy thai hay tái diễn, chậm phát triển thai nhi
Các rối loạn ở vú: Ung thư vú, giảm thời kỳ tiết sữa
Thời gian dậy thì bị biến đổi
Môi trường và khả năng sinh sản của phụ nữ
Có chứng cứ rõ rệt rằng việc tiếp xúc liên tục và kéo dài với nhiều hoá chất làm phá vỡ quân bình nội tiết (EDC: endocrine dirupting chemicals) là yếu tố nguy cơ làm giảm khả năng mang thai và khả năng có thể sinh con trong 1 chu kỳ kinh nguyệt (fecundity) ở phụ nữ. (Caserta 2011)
Khả năng gia tăng việc tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ sinh sản của phụ nữ, đã phát triển trong xã hội công nghiệp hoá và sau đó, là thời đại hậu công nghiệp của phương Tây.
Các yếu tố liên quan đến lối sống, như hút thuốc, béo phì và độ tuổi làm mẹ tăng cao, đã được xác minh là có ảnh hưởng đến khả năng có thể thụ thai tháng (fecundability), và khả năng có thể sinh con trong 1 chu kỳ kinh nguyệt (fecundity).
Cũng tương tự đối với các yếu tố nguy cơ về nghề nghiệp, bao gồm lao động nặng, việc tiếp xúc với các khí gây mê, các thuốc chống tăng sinh, các kim loại nặng và các dung môi. Các hoá chất hiện diện trong môi trường và chế độ ăn uống ít được quan tâm hơn, mặc dù có những bằng chứng từ các nghiên cứu về độc tính học đã xác định rõ rằng nhiều hoá chất làm giảm sự sinh sản của phụ nữ cả trực tiếp và/ hoặc gián tiếp.
Phạm vi của các rối loạn hệ sinh sản ở phụ nữ làm phá vỡ quân bình nội tiết là khá lớn. Sự tiếp xúc với các EDC có thể góp phần vào:
Các rối loạn về buồng trứng: dị bội, hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS), lạc nội mạc tử cung
Rối loạn chu kỳ kinh nguyệt: rối loạn tử cung (xơ tử cung), Rối loạn chức năng nhau thai
Kết quả mang thai bất lợi: hư thai giai đoạn sớm, sẩy thai hay tái diễn, chậm phát triển thai nhi
Các rối loạn ở vú: Ung thư vú, giảm thời kỳ tiết sữa
Thời gian dậy thì bị biến đổi
Áp lực oxy hoá và sự lão hoá của tế bào trứng sau khi trứng rụng (Lord 2013)
Áp lực oxy hoá xảy ra cùng với tuổi của tế bào trứng sau khi trứng rụng cũng có khả năng:
• Ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng của ty thể;
• Ảnh hưởng đến sự khởi phát quy trình chết tế bào;
• Làm tổn thương các thành phần lipid, protein và ADN của tế bào.
Các nghiên cứu lâm sàng đã được công bố cho thấy rằng chứng cứ có sẵn là đủ để thúc đẩy các hành động phòng ngừa để bảo vệ sức khoẻ sinh sản của phụ nữ tránh việc tiếp xúc với các tác nhân môi trường này.
Như đã đề cập ở phía trên, có một khoảng thời gian tối ưu mà khi đó sự thụ tinh nên xảy ra; ở các loài động vật có vú, thời gian này thường là trong vòng 10 giờ khi trứng rụng; tuy nhiên, sự thụ tinh thành công có thể vẫn xuất hiện ở chuột cho đến 15 giờ.
Trong khoảng thời gian kéo dài sau khi rụng trứng, tế bào trứng trải qua 1 sự thoái hoá về chất lượng được xem như là sự lão hoá của tế bào trứng sau khi trứng rụng. Sự lão hoá sau khi trứng rụng có liên quan đến giảm tỷ lệ thụ tinh, chất lượng phôi thai kém, những khiếm khuyết sau khi gắn kết vào tử cung và những bất thường ở đứa con sẽ được sinh ra.
Mặc dù các kết quả sinh lý về sự lão hoá của tế bào trứng sau khi trứng rụng đã được xác minh nhiều, các cơ chế phân tử kiểm soát quá trình này vẫn chưa được định nghĩa 1 cách kỹ càng. Người ta đặt giả thuyết rằng áp lực oxy hoá là yếu tố khởi đầu của sự lão hoá trứng sau khi trứng rụng. Mặc dù tế bào trứng có 1 cơ chế phòng vệ nội bào chống lại những tấn công có tính oxy hoá, qua các chất chống oxy hoá như glutathion, các nguồn này sẽ bị cạn kiệt dần theo tuổi của trứng sau khi trứng rụng.
Hậu quả của việc không ngừng sự sản xuất các dạng oxy phản ứng (ROS) và sự suy kiệt cùng lúc của khả năng bảo vệ chống oxy hoá, tế bào trứng lão hoá, khởi động cho 1 đợt các yếu tố khác tạo nên sự lão hoá của tế bào trứng sau khi trứng rụng, cũng như ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh về chức năng và sinh hoá của tế bào trứng.
Do đó người ta thấy rằng áp
lực oxy hoá có thể là nguồn gốc cho sự lão hoá trong tế bào trứng
được chứng minh bởi những phát hiện gần đây, xác định sự tấn công của
áp lực oxy hoá là 1 diễn biến tương đối sớm trong nuôi cấy trong ống nghiệm.
Áp lực oxy hoá xảy ra cùng với
tuổi của tế bào trứng sau khi trứng rụng cũng có khả năng:
• Ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng của ty thể;
• Ảnh hưởng đến sự khởi phát quy trình chết tế bào;
• Làm tổn thương các thành phần lipid, protein và ADN của tế bào.
Các ảnh hưởng có hại này của áp lực oxy hoá đưa đến 1 khái niệm loại bỏ áp lực oxy hoá bằng cách bổ cung các chất chống oxy hoá có thể đưa ra một hướng đi hiệu quả và an toàn cho việc làm chậm sự lão hoá sau khi trứng rụng.
Chẩn đoán chuyên biệt vô sinh ở phụ nữ
Chuẩn đoán chuyên biệt vô sinh ở phụ nữ nên kiểm tra sức khỏe bởi 1 bác sỹ phụ khoa.
Các thông số chính để đánh giá bao gồm: tình trạng bẩm sinh hay mắc phải có thể ảnh hưởng chức năng sinh sản của phụ nữ. Các tình trạng này là biến đổi về mặt cơ thể học và/ hoặc sinh lý về sinh sản, vì thế làm giảm sự vận chuyển các giao tử hoặc phôi thai và/ hoặc phá vỡ sự gắn kết và phát triển phôi thai/ thai nhi.
Sự đánh giá toàn diện hệ sinh sản nữ phải bao gồm các yếu tố thuộc cổ tử cung, tử cung, nội mạc tử cung, ống dẫn trứng, màng bụng và buồng trứng.
Các yếu tố thuộc cổ tử cung
Thử nghiệm sau giao hợp
(PCT), còn được gọi là thử nghiệm Sims-Huhner, bao gồm đánh giá số
lượng tinh trùng và chuyển động của chúng trong chất nhầy cổ tử cung trong suốt
thời gian trước khi rụng trứng. Mặc dù trước đây có được quan tâm, hiện nay thử
nghiệm này không còn là chuẩn để được thực hiện hàng ngày trong việc khám chẩn
đoán vô sinh nữa do khả năng chẩn đoán giới hạn và giá trị tiên đoán thấp. Việc
dùng thử nghiệm này gây tăng số lượng thử nghiệm mà không có cải thiện về tỷ lệ
mang thai. Hơn nữa, vô sinh do yếu tố cổ tử cung có thể được khắc phục bằng các
đưa tinh trùng vào bên trong tử cung để thụ tinh.
Chứng hẹp cổ tử cung có thể được chẩn đoán qua việc khám bằng dụng cụ mỏ vịt. Hẹp cổ tử cung hoàn toàn được xác định bằng việc không thể thử đưa ống thông có đường kính 1-2mm vào khoang trong tử cung.
Các yếu tố thuộc tử cung
Nhiều dị tật có thể được
phát hiện khi kiểm tra vùng chậu. Những dị tật này bao gồm sự
không có âm đạo và tử cung, vách ngăn âm đạo, và sự hiện diện của các dạng u
xơ. Sự phát hiện hầu hết các dị tật cần chụp hình buồng trứng- tai vòi HSG,
siêu âm, soi lòng tử cung và chụp MRI. Có thể thực hiện các phẫu thuật như soi ổ
bụng và soi chụp tử cung, cần thiết cho việc xác nhận lại chẩn đoán cuối cùng.
Chụp tử cung-ống dẫn trứng là 1 công cụ chẩn đoán được sử dụng thường xuyên nhất để kiểm tra khoang nội mạc tử cung. Một quá trình tỉ mỉ, thực hiện tốt, sử dụng chất huỳnh quang, sẽ cung cấp các thông tin về:
Ống bên trong cổ tử cung
Đường kính và hình dạng của phần ống bên trong cổ tử cung
Khoang nội mạc tử cung
Phần nối tai vòi/ tử cung
Đường kính, vị trí và hướng của các ống dẫn trứng
Tình trạng của các tua
Tình trạng tràn thuốc vào khoang nội mạc tử cung.
Trong những năm 1980, siêu âm vùng chậu đã trở thành 1 công cụ quan trọng trong việc đánh giá và theo dõi các bệnh nhân vô sinh, đặc biệt trong suốt quá trình kích thích rụng trứng. Siêu âm vùng chậu là 1 phần của sự đánh giá phụ khoa thường xuyên vì cho phép đánh giá chính xác hơn về vị trí tử cung bên trong vùng chậu và cung cấp nhiều thông tin hơn về kích thước và những bất thường của nó. Siêu âm vùng chậu cũng giúp phát hiện sớm u xơ tử cung, polyp nội mạc tử cung, nang buồng trứng, khối u phần phụ và nội mạc tử cung. Siêu âm cũng trợ giúp trong việc chẩn đoán sự không rụng trứng, tình trạng đa nang buồng trứng, và tình trạng duy trì các nang của thể vàng.
Siêu âm sử dụng nước muối (SIS) là một phương tiện đơn giản, không đắt tiền để đánh giá khoang tử cung và tình trạng thông khoáng tai vòi, được dung nạp tốt và có thể thực hiện trong phòng mạch. Hơn nữa, thủ thuật này loại bỏ
|